Vĩnh Phúc nỗ lực nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới

Xác định công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) là một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Thời gian qua, được sự quan tâm của các cấp, ngành, địa phương, sự nỗ lực của ngành Y tế - dân số tỉnh, công tác dân số - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đặc biệt trong đó đã từng bước ổn định và giảm mức sinh, nâng cao chất lượng dân số, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, để giải quyết những khó khăn, thách thức của công tác Dân số - KHHGĐ, trong những năm qua Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác Dân số - KHHGĐ, như: Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 05/12/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 79-KH/TU, ngày 29/01/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới; Nghị quyết 205/2015/NQ-HĐND, ngày 22/12/2015 của HĐND tỉnh về việc hỗ trợ kinh phí thực hiện chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2020; Kế hoạch số 776/KH-UBND, ngày 02/02/2016 của UBND tỉnh triển khai thực hiện Nghị quyết số 205/2015/NQ-HĐND ngày 22/12/2015 của HĐND tỉnh; Chương trình số 775/CTr-UBND, ngày 02/6/2016 của UBND tỉnh về công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 3882/KH-UBND, ngày 14/6/2016 của UBND tỉnh thực hiện Quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 23/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2025 và Chỉ thị số 04/CT-BYT ngày 15/3/2016… Những nghị quyết, chương trình hành động của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã tạo tiền đề, định hướng các mục tiêu cũng như hỗ trợ đầu tư kinh phí cho chương trình Dân số - KHHGĐ, là cơ sở để ngành Y tế - dân số trên địa bàn tỉnh triển khai có hiệu quả các hoạt động nhằm duy trì mức sinh thấp hợp lý, đồng thời triển khai các hoạt động để nâng cao chất lượng dân số.

Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, cấp ủy Đảng, chính quyền các huyện, thành phố và 137 xã, phường, thị trấn đều ban hành các nghị quyết, chương trình hành động và kế hoạch cụ thể để thực hiện hiệu quả các văn bản chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh. Cùng với nguồn kinh phí của Trung ương, hàng năm, tỉnh đều dành sự quan tâm và nguồn lực hỗ trợ về kinh phí để triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng dân số góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh.

Để đạt mục tiêu đề ra, các cấp, các ngành, các địa phương đã triển khai nhiều biện pháp thiết thực, trong đó trọng tâm là công tác tư vấn, tuyên truyền nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người dân về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe. Các cơ quan thông tin, truyền thông của tỉnh và hệ thống đài truyền thanh cơ sở thường xuyên đăng tải các tin, bài, chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác Dân số - KHHGĐ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Công tác truyền thông giáo dục có sự đổi mới, đa dạng về phương pháp và hình thức khác nhau; bằng nhiều loại hình, mô hình phù hợp với tâm lý, phong tục, tập quán của từng đối tượng; hướng đến vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nội dung tuyền thông cũng phong phú hơn: Vận động giảm sinh; thực hiện các biện pháp tránh thai; tuyên truyền về mất cân bằng giới tính khi sinh; bình đẳng giới; các hoạt động nâng cao chất lượng dân số... Qua đó, tạo được sự đồng thuận và hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng dân số của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.

Công tác phối hợp liên ngành giữa ngành Y tế, Chi cục Dân số - KHHGĐ với các đơn vị liên quan trong việc tuyên truyền chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được duy trì thông qua các hợp đồng trách nhiệm, các văn bản phối hợp liên ngành. Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Liên đoàn lao động…. đã tích cực vào cuộc tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên thực hiện chính sách Dân số - KHHGĐ.

Đội ngũ cán bộ làm công tác Dân số - KHHGĐ từ tỉnh tới cơ sở thường xuyên được đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ đáp ứng hoàn thành tốt nhiệm vụ của công tác dân số trong tình hình mới.

Hằng năm, ngành Y tế - dân số cũng đã xây dựng kế hoạch, hướng dẫn triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả các mô hình, đề án về nâng cao chất lượng dân số như: Đề án sàng lọc trước sinh và sơ sinh; tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng; thực hiện đề án “Nâng cao chất lượng dân số thông qua tuyên truyền, vận động, can thiệp, giảm thiểu sớm tật, bệnh ở thai nhi và sơ sinh trên địa bàn tỉnh”; Mô hình tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân cũng được triển khai ở 137/137 xã, phường, thị trấn, góp phần lớn trong việc nâng cao nhận thức, kỹ năng thực hành chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình cho tuổi vị thành niên, thanh niên. Đồng thời, tỉnh đã không ngừng xây dựng, củng cố, mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống y tế, giáo dục, văn hóa, khoa học kỹ thuật, hệ thống dịch vụ gia đình và cộng đồng đáp ứng nhu cầu của người dân. Các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hộ gia đình; chương trình đào tạo nghề, tạo việc làm cho người dân… được quan tâm đầu tư mở rộng, đặc biệt là những vùng kinh tế kém phát triển, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các gia đình chính sách. Việc đẩy mạnh thực hiện các chủ trương, đường lối đó đã góp phần không ngừng nâng cao chất lượng dân số của tỉnh theo từng năm.

Với sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh tới cơ sở, sự vào cuộc tích cực của các ban, ngành, đoàn thể và cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ cán bộ làm công tác dân số từ tỉnh tới cơ sở, chất lượng dân số của tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng. Tính đến ngày 01/4/2019, toàn tỉnh có 1.151.154 người (đứng thứ 37/63 tỉnh, thành); trong đó có 573.621 nam, chiếm 49,8% và 577.533 nữ, chiếm 50,1%. Tỷ lệ tăng dân số bình quân/năm giai đoạn 2009 - 2019 là 1,41%. Năm 2018, các chỉ tiêu cơ bản đạt và vượt kế hoạch, cụ thể: Mức giảm tỷ lệ sinh: giảm 0,95%o; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,18%; tỷ lệ sàng lọc trước sinh là 87,36%; tỷ lệ sàng lọc sơ sinh là 58,43%; tỷ lệ trẻ em sinh ra là con thứ 3 trở lên là 13,83%; tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn và cung cấp kiến thức về chăm sóc sức khoẻ sinh sản và KHHGĐ là 191.681/226.688, chiếm 84,56%; số người mới sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại là 68.857 người; tỷ lệ người cao tuổi được tư vấn và cung cấp kiến thức về chăm sóc sức khỏe dựa vào cộng đồng là 71,34%; tỷ lệ người cao tuổi được khám sức khỏe định kỳ tăng 15%... Kết quả này đã góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống của người dân Vĩnh Phúc.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được công tác Dân số - KHHGĐ vẫn còn đối mặt với những khó khăn, thách thức đó là: mật độ dân số không đồng đều giữa các vùng trung tâm và xa trung tâm; mức sinh đã giảm nhiều nhưng còn chênh lệch lớn giữa các vùng, tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn còn cao (13,83%); tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh của Vĩnh Phúc còn cao so với mức cân bằng tự nhiên và so với toàn quốc, năm 2018 là 115,34 trẻ trai/100 trẻ gái (toàn quốc  là 112,4 trẻ trai/100 trẻ gái)… Việc tận dụng “thời kì cơ cấu dân số vàng” của tỉnh chưa có những hoạt động cụ thể.

Trong thời gian tới, để thực hiện có hiệu quả công tác Dân số - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tổ chức triển khai thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh về lĩnh vực Dân số - KHHGĐ như Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác Dân số trong tình hình mới; Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 05/12/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 80-KH/TU và Kế hoạch số 79-KH/TU, ngày 29/01/2018 của Tỉnh ủy về triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017…

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp, sự tham gia phối hợp của các sở, ban ngành, Ủy ban mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đối với công tác bảo vệ chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân và công tác dân số trong tình hình mới; tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần; tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giảm tỷ lệ bệnh tật, giảm tử vong, tăng tuổi thọ cho người dân; thực hiện tốt các chương trình, biện pháp nhằm nâng cao tầm vóc, thể lực của người dân Vĩnh Phúc. Đề ra giải pháp cụ thể đối với nhiệm vụ giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của các cấp chính quyền.

Ba là, đẩy mạnh truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh; cảnh báo những hệ lụy lâu dài của vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh đối với hạnh phúc của mỗi gia đình và sự phát triển của cộng đồng xã hội. Rà soát sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, tuyệt đối cấm mọi hình thức lựa chọn giới tính khi sinh. Tăng cường biện pháp quản lý Nhà nước đối với các cơ sở y tế, ngăn chặn hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, nghiêm cấm các hình thức tuyên truyền sinh con theo ý muốn, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Các tổ chức chính trị, xã hội chủ động phối hợp với chính quyền, ngành Y tế trong việc tăng cường vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện các giải pháp nhằm giảm tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.

 

hỏi đáp

Chi cục dân số - kế hoạch hóa gia đình Vĩnh phúc tiếp nhận và trả lời tất cả các vẫn đề thắc mắc về dân số và các chính sách về dân số và kế hoạch hóa gia đình.